Vì sao cần thiết phải nghiên cứu, học tập lịch sử
Lịch sử là một bộ môn đặc biệt, phản ánh những gì đã và đang diễn ra về tất cả các lĩnh vực, trong quá khứ và hiện tại, do đó nội dung lịch sử rất phong phú, đa dạng; thời gian dài, không gian rộng lớn. Mỗi lĩnh vực lại có lịch sử riêng, như lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, lịch sử văn hóa, lịch sử tư tưởng, lịch sử nhà nước và pháp luật, lịch sử địa phương, cơ quan, đoàn thể…
Để nắm sâu sắc, cặn kẽ được lịch sử không hề đơn giản; đây là một trong những lý do nhiều người rất ngại, thậm chí không muốn học lịch sử. Mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường, một bộ phận người dân chạy theo những lợi ích vật chất trước mắt, ít quan tâm đến truyền thống, có người đã quay lưng lại với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, dẫn đến vi phạm pháp luật. Thậm chí có kẻ còn yếu hèn phản bội dân tộc, cam tâm bán nước, làm tay sai cho ngoại bang. Trong các trường học có hiện tượng học sinh chỉ chú ý đến các môn thi chính trong tốt nghiệp, các môn thi đại học như: Toán, Văn, Lý, Hóa, Sinh, Ngoại ngữ… mà không mấy người quan tâm đến các môn như Lịch sử, Đạo đức… Thậm chí có người còn đề xuất bỏ môn lịch sử trong trường học.
Vậy, nghiên cứu, học tập lịch sử có cần thiết hay không? Và có nên tiếp tục học môn lịch sử hay không? Tìm hiểu về vai trò, tác dụng của lịch sử, chúng ta dễ dàng nhận thấy có các tác dụng thiết thực sau đây:
Thứ nhất, lịch sử giúp ta nâng cao nhận thức, hiểu biết trong cuộc sống.
Lịch sử là một phần nội dung quan trọng của tri thức nhân loại, của mỗi dân tộc. Cũng như văn hóa, lịch sử là tấm gương phản ánh về những gì đã qua hoặc đang diễn ra, mang lại hiểu biết, nâng cao kiến thức cho mỗi người khi nghiên cứu, học hỏi về nó. Không phải ngẫu nhiên mà trước đây những người được coi là thông tỏ kim cổ Đông – Tây, những người có văn hóa cao, lại chính là những người hiểu biết nhiều về lịch sử, hiểu biết về văn hóa, tức là nắm được nhiều những gì đã diễn ra trong quá khứ và vận dụng tốt những kiến thức đó trong cuộc sống.
Chúng ta cũng biết mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển, diệt vong và đều được lịch sử phản ánh lại bằng cách này hay cách khác. Do đó, lịch sử chính là một kho kiến thức và trí tuệ của nhân loại, trong đó chứa đựng nhiều nội dung hữu ích, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết về cuộc sống cho người nghiên cứu, học tập lịch sử. Đây là những nội dung rất quan trọng đối với mỗi người chúng ta.
Thứ hai, lịch sử là tấm gương phản chiếu, soi chung; góp phần khuyến khích sự nỗ lực, cố gắng; hạn chế những việc làm sai trái, tiêu cực.
Sự phản ánh xã hội của lịch sử luôn diễn ra một cách khách quan, cả những mặt tích cực và những mặt hạn chế. Sự phản ánh của lịch sử sẽ cho chúng ta biết được những tấm gương sáng trên các lĩnh vực trong học tập, công tác, lao động sản xuất hay trên các lĩnh vực văn hóa, du lịch, thể thao… đặc biệt là các tấm gương sáng trong lịch sử các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… để mọi người học tập, noi theo.
Đương nhiên, lịch sử cũng khách quan phản ánh lại những trường hợp đã vì những quyền lợi ích kỷ cá nhân mà làm những việc sai trái, thậm chí bán rẻ Tổ quốc như Kiều Công Tiễn, Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống… để muôn đời Nhân dân phỉ nhổ.
Qua tấm gương lịch sử, áp dụng vào cuộc sống thực tế, mọi người trên mọi lĩnh vực nếu muốn được ghi nhận, ca ngợi đều phải cố gắng. Những kẻ bán nước hại dân, làm điều thấp kém, sai trái, trộm cắp, thất đức… đều bị người đời lên án. Chính tác dụng này của lịch sử sẽ góp phần khuyến khích mọi người, trên mọi lĩnh vực đều nỗ lực cố gắng để làm tốt và hạn chế các tiêu cực trong xã hội.
Thứ ba, nghiên cứu, học tập lịch sử để rút kinh nghiệm phục vụ cho cuộc sống bản thân và công tác xã hội.
Từ việc nghiên cứu, học hỏi những sự kiện lịch sử đã và đang diễn ra giúp chúng ta nâng cao nhận thức. Trên cơ sở những hiểu biết đó chúng ta sẽ có những đánh giá, nhận xét về mỗi sự vật, hiện tượng, chỉ ra những đặc điểm và ưu, khuyết của vấn đề. Từ đó rút ra những kinh nghiệm hữu ích phục vụ cho cuộc sống bản thân và xã hội.
Việc vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống có 2 cấp độ: Cấp độ vi mô là phục vụ cho cuộc sống gia đình, bản thân. Cấp độ vĩ mô là phục vụ cho công tác xã hội. Cấp độ nào cũng hết sức quan trọng.
Về phục vụ cuộc sống gia đình, bản thân: Thể hiện ở chỗ, khi mỗi cá nhân chúng ta chưa biết hoặc chưa thuần thục điều gì, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm, phương pháp của người khác để làm được và làm tốt hơn. Ví dụ: trong cùng một lớp học (cùng thầy cô dạy), có học sinh A học khá, học sinh B học kém hơn, thì học sinh B có thể học hỏi kinh nghiệm của học sinh A để đạt kết quả tốt hơn. Trong sản xuất, kỹ thuật, cùng một việc làm như nhau, nhưng người thợ A có kết quả tốt; người thợ B cho kết quả kém hơn, thì người thợ B có thể học tập kinh nghiệm của người thợ A để đem lại kết quả tốt hơn. Điều này cũng có thể áp dụng cho các lĩnh vực khác như: nông nghiệp, công nghiệp, buôn bán… một cách tương tự.
Về phục vụ công tác xã hội: Ở tầm vĩ mô, kinh nghiệm lịch sử phục vụ rất đắc lực cho công tác xã hội, đặc biệt là các cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Việc một quốc gia này học tập kinh nghiệm của quốc gia khác trong đấu tranh giành độc lập dân tộc hay trong phát triển kinh tế – xã hội cũng đã từng diễn ra rất nhiều trong thực tế lịch sử.
Như Việt Nam học tập kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga; các nước thuộc địa châu Phi học tập Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta cũng học tập kinh nghiệm của các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… để phát triển kinh tế – xã hội trong đổi mới…
Các nhà lãnh tụ thế giới, những người đã sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, như Các Mác, Ăngghen, Lênin… đều là những người đã nghiên cứu và hiểu biết rất sâu sắc về lịch sử. Các Mác là người đã bổ sung, phát triển, đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, đưa chủ nghĩa duy vật từ siêu hình thành biện chứng. Một trong những đóng góp lớn nhất của ông chính là đã nghiên cứu, xây dựng nên học thuyết về “chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Sở dĩ ông dành cả cuộc đời nghiên cứu và xây dựng học thuyết về “chủ nghĩa duy vật lịch sử” vì ông đã hiểu biết sâu sắc về vai trò, tác dụng của lịch sử và kinh nghiệm rút ra từ lịch sử đối với cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng nhân loại. Qua học thuyết của ông về “chủ nghĩa duy vật lịch sử” đã cung cấp cho nhân loại góc nhìn đúng đắn, khoa học về sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội của loài người. Từ đó rút ra kinh nghiệm, chỉ ra phương pháp tập hợp lực lượng và đấu tranh phù hợp để giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân loại và chỉ ra con đường tất yếu đưa loài người tiến lên một hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, đó là chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) của chúng ta cũng là người hiểu rất rõ về lịch sử và vai trò, tác dụng của lịch sử. Người viết: “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” trong diễn ca “Lịch sử nước ta”. Đặc biệt, Người rất giỏi vận dụng kinh nghiệm lịch sử phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Trong điều kiện hoạt động bí mật khó khăn, thiếu thốn, bàn không có, phải kê tạm bàn bằng đá để viết; chính trong điều kiện “Bàn đá chông chênh” đó, nhưng Người vẫn dành thời gian để dịch lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô sang tiếng Việt để làm tài liệu tuyên truyền và vận động cách mạng. Điều đó cho thấy Người rất coi trọng và sử dụng kinh nghiệm lịch sử trong hoạt động cách mạng.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, hàng trăm cuộc khởi nghĩa của Nhân dân Việt Nam do giai cấp phong kiến và nông dân lãnh đạo, dù rất sôi nổi và anh dũng, song do thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn nên cuối cùng đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Thời gian này có 2 trào lưu yêu nước cách mạng lớn do các trí thức phong kiến lãnh đạo là Phan Bội Châu – chủ trương bạo động, dựa vào sự giúp đỡ của Nhật để chống Pháp và Phan Chu Trinh – theo đường lối cải lương, dựa vào sự giúp đỡ của Pháp để chấn hưng đất nước. Phong trào yêu nước cách mạng của 2 nhà chí sĩ đó có thời điểm phát triển khá sôi nổi, được nhiều người ủng hộ. Mặc dù còn rất trẻ nhưng người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc sau này) đã căn cứ và rút kinh nghiệm từ thực tế lịch sử, nhận thấy cả 2 xu hướng trên đều khó có thể giành thắng lợi. Theo Người, đã là đế quốc, thực dân thì bản chất của chúng đều là bóc lột, do đó, nếu có nhờ được thế lực thực dân, đế quốc này đánh đuổi được thế lực thực dân, đế quốc khác thì chẳng qua cũng chỉ là sự thay thế kẻ áp bức, bóc lột này bằng kẻ áp bức, bóc lột khác. Chẳng khác nào “Đưa hùm cửa trước, rước beo cửa sau”. Cuối cùng Nhân dân vẫn không thoát khỏi sự áp bức, nô lệ. Vì thế, Người đã quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thời đại mới và cuối cùng đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, học được kinh nghiệm đấu tranh giải phóng dân tộc của Cách mạng Tháng Mười Nga, sau đó trở về lãnh đạo Nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Vị Đại tướng của Nhân dân cũng đã từng là một giáo viên lịch sử. Với những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở thực tế, ông đã sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả trong các tình huống chiến tranh; tiết kiệm máu xương của quân lính, khi thì vận dụng chiến tranh du kích với đường lối chiến tranh “toàn dân, toàn diện, trường kỳ”; đánh địch bằng 3 mũi tiến công, 3 vùng chiến lược; khi thì “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa” nên đã góp phần đánh bại các danh tướng của Pháp và Mỹ, như: Bô-na, Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi, Na-va, Oét-mo-len… làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Kiến thức và kinh nghiệm lịch sử không những đã góp phần giúp ông phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vận dụng thành công trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn giúp ông vận dụng cả trong đối nhân xử thế của cuộc đời, đưa tên tuổi ông trở thành một vị Đại tướng lừng danh thế giới, một vị Đại tướng của lòng dân.

Thứ tư, nghiên cứu lịch sử góp phần khẳng định chân lý và đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch khác.
Như trên đã nói, các sự kiện của đời sống xã hội nhân loại luôn diễn ra một cách khách quan và được lịch sử phản ánh lại bằng cách này hay cách khác. Nếu không có sự cố tình tác động hay xuyên tạc của một thế lực nào đó thì tư liệu lịch sử chính là những căn cứ chính xác nhất để phản ánh cho chúng ta hiểu về các sự vật, hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ.
Hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm sau, người ta sẽ không thể biết được những gì đã diễn ra từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… đến thời đại Hồ Chí Minh; người xưa đã sống như thế nào và họ đã làm những gì, nếu không có tư liệu lịch sử để lại. Qua các tư liệu lịch sử, chúng ta có thể dần tiệm cận sự thật đã diễn ra trong quá khứ, giúp chúng ta hiểu về cuộc sống của người xưa và các sự kiện một cách đầy đủ hơn.
Khi đã hiểu được sự thật lịch sử thì ta có cơ sở để khẳng định được điều đó là đúng hay sai, thiện hay ác, lớn hay nhỏ, cũ hay mới… Điều này rất quan trọng để khẳng định chân lý, đấu tranh với những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về đường lối quan điểm của Đảng, xuyên tạc về các lãnh tụ, về kết quả đổi mới của đất nước… Tư liệu lịch sử còn là những cứ liệu quan trọng, thiết thực, hữu ích trong các cuộc đấu tranh có liên quan đến vấn đề văn hóa, lịch sử như biên giới, hải đảo… đang rất nóng bỏng, bức xúc hiện nay.
Thứ năm, nghiên cứu, học tập lịch sử còn giúp chúng ta điều chỉnh hành vi và xây dựng phương hướng, kế hoạch hành động đúng đắn trong cuộc sống.
Như vậy, lịch sử có vai trò rất quan trọng và cần thiết trong cuộc sống. Lịch sử không những giúp chúng ta hiểu biết, nâng cao nhận thức về đời sống xã hội, mà qua đó chúng ta còn có thể rút ra những đánh giá, nhận định, bài học kinh nghiệm để áp dụng thiết thực trong đời sống xã hội hằng ngày. Giá trị của lịch sử sẽ không được phát huy với ai không quan tâm và không biết vận dụng nó; nhưng sẽ vô cùng hữu ích với những người hiểu biết và vận dụng tốt vai trò, tác dụng của nó trong đời sống thực tế. Nghiên cứu, học tập lịch sử sẽ giúp mỗi chúng ta hiểu biết về lịch sử và vai trò, tác dụng của lịch sử để từ đó rút ra những kinh nghiệm thiết thực và áp dụng có hiệu quả trong cuộc sống của bản thân và trong công tác xã hội./.
Th.S Nguyễn Kim Chiến

